NOTE
Được chuyển ngữ từ bài viết 15 relationship facts everybody should know before getting married
Bạn có thể tự làm mình phát điên khi quyết định có nên kết hôn với đối tác của mình hay không.
Liệu hai bạn thực sự có thể sống sót bên nhau cả đời?
Ý tôi là, bạn yêu quý họ — nhưng họ liên tục để tóc vương vãi trong phòng tắm. Họ kể những câu chuyện cười tệ nhất — nhưng họ luôn ở đó an ủi bạn sau một ngày làm việc mệt mỏi.
Có lẽ sẽ hữu ích nếu chúng ta tìm đến các nghiên cứu khoa học, vốn đã chỉ ra các yếu tố cụ thể có thể tạo nên hoặc phá vỡ một mối quan hệ lãng mạn.
Dưới đây, chúng tôi đã tổng hợp 15 điều quan trọng mà bạn nên ghi nhớ trước khi thuê người tổ chức đám cưới.
Đây là bản cập nhật của một bài báo ban đầu được đăng bởi Drake Baer.
1. Nếu bạn đợi đến năm 23 tuổi mới cam kết, bạn ít có khả năng ly hôn hơn.
Một nghiên cứu năm 2014 của Đại học North Carolina tại Greensboro cho thấy những phụ nữ Mỹ sống thử hoặc kết hôn ở tuổi 18 có tỷ lệ ly hôn là 60%, nhưng những phụ nữ đợi đến 23 tuổi mới thực hiện một trong hai cam kết đó có tỷ lệ ly hôn khoảng 30%.
The Atlantic đưa tin: “Các cặp đôi càng đợi lâu để đưa ra cam kết nghiêm túc đầu tiên [sống thử hoặc kết hôn], cơ hội thành công trong hôn nhân của họ càng cao.”
2. Giai đoạn ‘đang yêu’ kéo dài khoảng một năm.
Giai đoạn trăng mật không kéo dài mãi mãi.
Theo một nghiên cứu năm 2005 của Đại học Pavia ở Ý, giai đoạn này kéo dài khoảng một năm. Sau đó, nồng độ của một chất hóa học gọi là “yếu tố tăng trưởng thần kinh” (nerve growth factor), vốn liên quan đến cảm xúc lãng mạn mãnh liệt, bắt đầu giảm.
Helen Fisher, một nhà tâm lý học và chuyên gia về mối quan hệ, nói với Business Insider rằng không rõ chính xác khi nào cảm giác “đang yêu” bắt đầu phai nhạt, nhưng điều đó xảy ra “vì những lý do tiến hóa tốt,” bà nói, bởi vì “rất tốn kém về mặt trao đổi chất khi dành quá nhiều thời gian chỉ tập trung vào một người trong trạng thái lo âu cao độ đó.”
3. Hai người có thể hợp nhau — hoặc không hợp nhau — ở nhiều cấp độ.
Trở lại những năm 1950 và ‘60, nhà tâm lý học người Canada Eric Berne đã giới thiệu một mô hình ba cấp để hiểu về danh tính của một người. Ông nhận thấy rằng mỗi người trong chúng ta đều có ba “trạng thái bản ngã” hoạt động cùng lúc:
- Phụ huynh (The parent): Những gì bạn đã được dạy
- Đứa trẻ (The child): Những gì bạn đã cảm nhận
- Người lớn (The adult): Những gì bạn đã học được
Khi bạn đang trong một mối quan hệ, bạn tương tác ở mỗi cấp độ đó:
- Phụ huynh: Hai bạn có giá trị và niềm tin tương đồng về thế giới không?
- Đứa trẻ: Hai bạn có vui vẻ bên nhau không? Có thể bốc đồng không? Bạn có thấy đối tác của mình hấp dẫn không? Hai bạn có thích đi du lịch cùng nhau không?
- Người lớn: Mỗi người có nghĩ người kia thông minh không? Hai bạn có giỏi giải quyết vấn đề cùng nhau không?
Mặc dù có sự đối xứng ở cả ba cấp độ là lý tưởng, nhưng mọi người thường đến với nhau để “cân bằng lẫn nhau”. Ví dụ, một người có thể thích chăm sóc và người kia thích vui đùa.
4. Những cuộc hôn nhân hạnh phúc nhất là giữa những người bạn thân.
Một nghiên cứu năm 2014 của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (National Bureau of Economic Research) cho thấy hôn nhân thực sự dẫn đến việc tăng hạnh phúc, chủ yếu nhờ vào tình bạn.
Kiểm soát mức độ hạnh phúc trước hôn nhân, nghiên cứu kết luận rằng hôn nhân dẫn đến việc tăng hạnh phúc — và điều đó hiệu quả hơn rất nhiều đối với những người có tình bạn thân thiết với vợ/chồng của họ. Bài báo nhận thấy tình bạn là một cơ chế quan trọng có thể giúp giải thích mối quan hệ nhân quả giữa hôn nhân và sự hài lòng trong cuộc sống.
5. Cặp đôi càng gần tuổi nhau, khả năng ly hôn càng thấp.
Một nghiên cứu trên 3.000 người Mỹ đã từng kết hôn cho thấy sự khác biệt về tuổi tác có tương quan với xích mích trong hôn nhân.
Megan Garber của The Atlantic đưa tin:
“Nghiên cứu cho thấy, sự chênh lệch một tuổi trong độ tuổi của một cặp đôi khiến họ có khả năng ly hôn cao hơn 3% (so với các cặp đôi cùng tuổi); tuy nhiên, chênh lệch 5 tuổi khiến họ có khả năng chia tay cao hơn 18%. Và chênh lệch 10 tuổi khiến họ có khả năng cao hơn 39%.“
6. Nếu bạn vui mừng trước tin tốt của đối tác, bạn sẽ có một mối quan hệ tốt hơn.
Trong nhiều nghiên cứu, các cặp đôi tích cực ăn mừng tin tốt (thay vì tích cực hoặc thụ động bác bỏ nó) có tỷ lệ hạnh phúc trong mối quan hệ cao hơn.
Ví dụ, giả sử một người vợ về nhà và chia sẻ một thành tựu với đối tác. Phản ứng “tích cực-xây dựng” sẽ là tốt nhất, theo Amie Gordon, nhà tâm lý học xã hội tại Đại học California tại Berkeley:
- Phản ứng tích cực-xây dựng từ đối tác sẽ là sự ủng hộ nhiệt tình: “Tuyệt vời, em yêu! Anh biết em có thể làm được mà. Em đã làm việc rất chăm chỉ.”
- Phản ứng thụ động-xây dựng sẽ là sự ủng hộ nhẹ nhàng: một nụ cười ấm áp và một câu đơn giản “đó là tin tốt.”
- Phản ứng tích cực-phá hoại sẽ là một câu nói hạ thấp sự kiện đó: “Điều này có nghĩa là từ giờ em sẽ phải đi làm lâu hơn nữa à? Em có chắc là em xử lý được không?”
- Cuối cùng, phản ứng thụ động-phá hoại gần như sẽ lờ đi tin tốt: “Ồ, thật sao? Chà, em sẽ không tin chuyện gì đã xảy ra với anh trên đường về nhà hôm nay đâu!“
7. Sự bất mãn nhanh chóng tích tụ ở các cặp đôi không cùng nhau giải quyết việc nhà.
Hơn 60% người Mỹ trong một cuộc thăm dò cho biết việc chăm sóc việc nhà đóng một vai trò quan trọng trong việc có một cuộc hôn nhân thành công.
Đồng tác giả cuốn It’s Not You, It’s the Dishes, Paula Szuchman, khuyến nghị một hệ thống trong đó mỗi người chuyên làm những công việc nhà mà họ giỏi nhất.
Cô viết: “Nếu bạn thực sự rửa chén giỏi hơn là nhớ gọi điện cho bên thông gia, thì đó nên là việc của bạn. Việc đó sẽ tốn ít thời gian của bạn hơn so với anh ấy, và anh ấy sẽ tốn ít thời gian hơn để trò chuyện nhanh với mẹ so với bạn, điều này có nghĩa là cuối cùng, cả hai bạn đã tiết kiệm được khá nhiều thời gian chung.”
8. Chúng ta có những tiêu chuẩn cao hơn bao giờ hết đối với hôn nhân.
Nhà tâm lý học Northwestern Eli Finkel đã phát hiện ra rằng hôn nhân ở Mỹ đã trải qua ba giai đoạn:
- Hôn nhân thể chế (Institutional marriage) (từ khi quốc gia thành lập đến năm 1850)
- Hôn nhân đồng hành (Companionate marriage) (từ 1851 đến 1965)
- Hôn nhân thể hiện bản thân (Self-expressive marriage) (từ năm 1965 trở đi)
Trước năm 1850, các cặp đôi kết hôn vì mục đích thức ăn, chỗ ở và sự bảo vệ. Sau đó, với Cuộc cách mạng Công nghiệp, mọi người có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn, Finkel nói, vì vậy chúng ta bắt đầu tìm kiếm sự đồng hành ở đối tác của mình. Những năm 60 đã mang đến khát vọng thực hiện bản thân thông qua các mối quan hệ, điều mà chúng ta tiếp tục phấn đấu cho đến ngày nay.
9. Bạn sẽ không bao giờ hiểu rõ đối tác của mình một cách hoàn hảo.
Sau khi hẹn hò với ai đó vài năm, bạn có thể cảm thấy như mình biết mọi thứ về họ: họ dùng loại kem đánh răng nào, họ xem lén (binge-watch) loạt phim truyền hình nào, những loại thức ăn nào khiến họ buồn nôn.
Nhưng bạn có thể không hiểu họ tốt như bạn nghĩ.
Theo một nghiên cứu năm 1997, các cặp đôi đã ở bên nhau lâu hơn thể hiện sự tự tin hơn về mức độ họ hiểu nhau. Nhưng hóa ra, độ dài của mối quan hệ không liên quan đến độ chính xác của sự hiểu biết đó.
Ngay cả khi những người tham gia phải đoán xem đối tác của họ sẽ tự đánh giá thế nào về trí thông minh, khả năng thể thao và sự hấp dẫn, họ chỉ đúng khoảng 30% số lần.
10. Nếu bạn dọn đến ở chung để ‘kiểm tra’ mối quan hệ, có lẽ bạn không tự tin lắm vào nó.
Một nghiên cứu năm 2009 do các nhà nghiên cứu tại Đại học Denver dẫn đầu cho thấy hầu hết các cặp đôi dọn đến ở chung vì những lý do khác ngoài việc thử nghiệm mối quan hệ của họ trước khi kết hôn.
Nhưng các cặp đôi báo cáo rằng họ kiểm tra mối quan hệ có nhiều khả năng trải qua một số cảm xúc tiêu cực hơn. Ví dụ, trong số những người kiểm tra, đàn ông có điểm cao hơn về các thước đo trầm cảm và lo âu, và phụ nữ có điểm cao hơn về các thước đo lo âu bị bỏ rơi. Cả hai nhóm đều ít tự tin hơn vào mối quan hệ.
Trong một chuyên mục Psychology Today gần đây, một trong những tác giả nghiên cứu giải thích ý nghĩa của những phát hiện này:
“Đối với chúng tôi, có vẻ như nhiều người nghĩ đến việc kiểm tra mối quan hệ của họ bằng cách sống thử đã biết, ở một mức độ nào đó, điểm số của bài kiểm tra đó có thể là gì; họ hy vọng rằng câu trả lời sẽ tốt hơn theo thời gian.”
11. Nếu bạn phụ thuộc kinh tế vào vợ/chồng mình, bạn có nhiều khả năng ngoại tình với họ.
Trái ngược với niềm tin phổ biến, việc ngoại tình không nhất thiết phổ biến hơn ở các cặp đôi có thu nhập cao. Mối liên hệ giữa thu nhập và không chung thủy tinh tế hơn thế.
Nghiên cứu gần đây từ Đại học Connecticut cho thấy một người phụ thuộc kinh tế vào vợ/chồng mình có nhiều khả năng không chung thủy hơn — và điều này đặc biệt đúng đối với người đàn ông phụ thuộc tài chính vào người phụ nữ.
Điều thú vị là, khi phụ nữ là người trụ cột kiếm tiền, họ ít có khả năng ngoại tình hơn. Khi đàn ông là người trụ cột kiếm tiền, họ lại có nhiều khả năng ngoại tình hơn.
12. Chúng ta nghĩ rằng mọi người khác đều ngoại tình, trừ đối tác của chính mình.
Bạn không thể tin tưởng bất kỳ ai — ngoại trừ người yêu của mình, đúng không?
Một nghiên cứu năm 2015 của Đại học Calgary cho thấy sinh viên đại học dị tính nghĩ rằng một thành viên trung bình của giới tính đối lập có khoảng 40% khả năng ngoại tình với đối tác của họ. Nhưng những người tham gia đó lại nói rằng đối tác của chính họ chỉ có 5% khả năng ngoại tình.
Tỷ lệ những người tham gia nói rằng họ thực sự đã từng ngoại tình với đối tác của mình là bao nhiêu? 9%.
13. Các cặp đôi biết ơn nhau có nhiều khả năng ở bên nhau hơn.
Như Erin Brodwin của Business Insider đã đưa tin, lòng biết ơn có thể là chìa khóa cho các mối quan hệ lâu dài.
Trong một nghiên cứu của Đại học North Carolina tại Chapel Hill, các nhà nghiên cứu yêu cầu những người tham gia giữ nhật ký hàng ngày, ghi lại những điều đối tác đã làm cho họ và cảm giác của họ về điều đó. Hóa ra, các cặp đôi biết ơn nhau nhiều hơn cảm thấy mối quan hệ của họ bền chặt hơn.
Trong khi đó, một loạt nghiên cứu khác, do một nhà nghiên cứu tại Đại học California, Berkeley dẫn đầu, đã phát hiện ra rằng các cặp đôi biết ơn nhau nhiều hơn có nhiều khả năng vẫn ở bên nhau chín tháng sau đó.
14. Cuối cùng bạn nhận ra rằng hai bạn không phải là một người duy nhất.
Một khi bạn bắt đầu sống chung, bạn có thể nhận ra rằng hai bạn có những ưu tiên và khả năng chịu đựng khác nhau — chẳng hạn như, điều gì được coi là bừa bộn và điều gì không.
Nhà trị liệu cặp đôi Ellyn Bader nói: “Mọi người phải chấp nhận thực tế rằng ‘chúng ta thực sự là những người khác nhau.’ ‘Bạn khác với người mà tôi nghĩ bạn là hoặc muốn bạn trở thành. Chúng ta có những ý tưởng, cảm xúc, sở thích khác nhau.’”
Đó là một sự tiến hóa đầy căng thẳng — và cần thiết.
15. Khi nói đến tình dục, chất lượng quan trọng hơn số lượng.
Jessica Orwig của Business Insider đã đưa tin về một nghiên cứu thú vị của Carnegie Mellon về mối liên hệ giữa tần suất quan hệ tình dục với đối tác và mức độ hạnh phúc của bạn.
Các nhà nghiên cứu chia một nhóm các cặp vợ chồng dị tính thành hai nhóm: Trong 90 ngày, một nửa tiếp tục lịch quan hệ tình dục bình thường và một nửa quan hệ tình dục gấp đôi số lần đó. Khi các nhà nghiên cứu đo lường cảm giác của mỗi nhóm vào cuối thí nghiệm, nhóm đã tăng gấp đôi tần suất quan hệ tình dục trên thực tế lại ít hạnh phúc hơn một chút.
Như nhà nghiên cứu chính đằng sau nghiên cứu đã nói với The New York Times, nếu bạn muốn hạnh phúc, hãy tập trung vào chất lượng hơn số lượng.